Chỉ người nào nhẫn
nại mới hoàn tất công việc, kẻ nôn nóng sẽ vấp ngã.
Saadi
Sau khi làm sạch ruột già theo kiểu Woker, cần bắt tay vào việc làm sạch gan.
Toàn bộ máu tĩnh mạch đi từ ruột, trừ phần dưới của trực tràng, đều đi qua gan. Trong suốt cuộc đời chứng ta, gan đã khử độc và giữ lại ở đó những thứ mà khi bạn nhìn thấy chúng được tống ra khỏi cơ thể nhờ một cuộc làm vệ sinh đặc biệt, thì bạn sẽ không tin vào mắt mình nữa.
Phần này sẽ tìm hiểu xem các thầy thuốc thời cổ và thời nay khuyên ta làm sạch gan như thế nào và sẽ dùng quan điểm khoa học soi sáng thực chất của các phương pháp ấy.
GIẢI PHẪU GAN
Gan người hình thành ở tuần thứ ba của bào thai, phát triển dần từ phần ruột giữa. Gan là tuyến lớn nhất trong cơ thể người, có khối lượng từ 1,0 dến 2 kg. Gan mềm, có dạng hình nón không đều, có hai bề mặt : bề mặt phía trên lồi lên, hướng về phía cơ hoành, tiếp cận với bề mặt dưới; bề mặt dưới thì hướng xuống dưới, hướng về phía sau và tiếp cận với nhiều cơ quan trong ổ bụng. Hầu như từ mọi phía gan đều được phủ một lớp màng, trừ phần bề mặt trên cùng phía sau, sát với mặt dưới của cơ hoành.
Gan là cơ quan bất động. Đã chứng minh có sự tham gia của các dây thần kinh cơ hoành vào sự phân bố thần kinh ở gan. Áp suất nén trong vùng bụng giúp cho gan ở nguyên tại vị trí của nó.
TUẦN HOÀN MÁU VÀ SỰ TẠO BẠCH HUYẾT TRONG GAN
Hệ thống tĩnh mạch trong gan rất phát triển về chiều dài cũng như dung lượng. .Nó chia ra tĩnh mạch cửa và hệ thống tĩnh mạch gan. Cái độc đáo của tĩnh mạch cửa là ở chỗ nó bắt đầu và kết thúc bằng các mao mạch. Nếu động mạch gan đem máu giàu oxy đến nuôi mô gan, thì tĩnh mạch cửa thu lượm máu từ toàn bộ kênh dạ dày-ruột, lá lách và là mạch chính quyết định chức năng của gan. Nó có một trong các phần nối thông: cơ bản (các ông dẫn đi vòng; ẩn bên dưới) với tĩnh mạch trực tràng Nhờ các liên kết tĩnh mạch mà gan giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của thận, lá lách, dạ dày, tim và các cơ quan khác.
Theo tư liệu, cứ mỗi phút có trung bình 1500 millilít (ml) máu chảy qua gan, trong số đó 1200 ml (80%) đi qua tĩnh mạch cửa, 300 ml còn lại (20%) đi qua động mạch gan. Máu đi vào tĩnh mạch cửa từ các phần khác nhau trong khoang bụng sẽ không hòa vào nhau hoàn toàn, mà chi một phần, chảy như một dòng riêng. Giống như một dòng sông đổ vào dòng sông khác, một thời gian vẫn chảy dòng riêng, trước khi hòa lẫn vào nhau. Máu từ các phần khác nhau ở bụng đi vào các phần khác nhau của gan.. Ví dụ máu từ lá lách đi vào phần bên trái gan nhiều hơn, còn máu từ ruột già thì đi vào phần bên phải của gan.
Đặc điểm khác của tuần hoàn máu trong gan là ở gan máu chảy chậm hơn so với ở các cơ quan khác. Còn áp suất trong tĩnh mạch cửa thì mạnh hơn hẳn so với tĩnh mạch các vùng khác - từ 7 đến 14 mm/Hg. Ngoài ra, cần chú ý rằng dòng máu chảy trong gan thay đổi tùy theo sự vận động của lồng ngực và của cơ hoành.
Sự tạo bạch huyết ở gan diễn ra rất mạnh, bởi vì từ 1/3 đến 1/4 toàn bộ thể bạch huyết bắt nguồn từ gan.
CHỨC NĂNG CỦA GAN
Gan vừa là cơ quan tiêu hóa, vừa là cơ quan tuần hoàn và trao đổi chất. Sự trao đổi chất bột, chất đạm, chất mỡ, chất khoáng, nước, sắc tố, vitamin, hoócmôn trong cơ thể gắn liền với chức năng của gan, Gan thực hiện những chức năng gây men và bài tiết mang tính chất bảo vệ, khử độc đặc biệt để duy trì môi trường bên trong bình thường cho cơ thể. Ví dụ, khi-có các chất độc, như indola, scatol, từamin ngấm từ ruột già tới, axít sunfuric và axít glucorunoic sẽ liên kết với chúng, tạo thành các axít ête-sunfuric. Các liên kết ấy sau đó sẽ được thải ra theo các kênh làm sạch.
Xin trích dẫn một đoạn trong bài “Các bệnh về gan và mật” của E. P. Shuvalova đăng trong tập sách mỏng Khoa sức khỏe số 4, năm 1986 :
“Khi có các chất khác lạ đi vào máu, gan sẽ chộp lấy hết thảy-bọn chúng. Chỉ khi lượng chất khác lạ quá lớn, các chất ấy mới xuất hiện ở các cơ quan khác.
Đồng thời gan tham gia sự trao đổi chất trung gian độc lập với sự tiêu hóa. Gan tham, gia- quá trình tiêu máu (phân hủy những hồng cầu đã chết) diễn ra trong lá lách, trong dòng máu; quá trình ấy chấm dứt ở gan bằng việc tạo ra mật.
Cần nhắc đến chức năng-tạo urê của gan. Việc tạo urê chỉ xảy ra ở gan, và chất urê với tư cách sản phẩm cuối cùng của sự trao đổi chất đạm sẽ được thận thải ra. Điều đó chứng tỏ mối liên hệ mật thiết về chức năng của gan và chức năng của thận”.
1) Tạo mật
Tạo mật là một chức nặng đặc biệt của gan, nhưng nó đã được chuẩn bị bởi hoạt động của hàng loạt cơ quan và mô. Trong một ngày đêm, con người tạo ra 800 ~ 1000 ml mật.
Đường dẫn mật rộng 4 mm và dài 2 ~ 6 cm, mật đi theo đường dẫn đến ống mật. Ống mật rộng trung bình 3 mm, dài từ 3 cm dến 7 cm. Ống mật chủ rộng 6 mm, dài 7-8 cm. Khi bị nghẽn, chiều rộng của ống mật chủ có thể phình ra tới 15 - 20 mm, mà không bị coi là tình trạng bệnh lý !
a. Mật cô thể chảy dễ dàng trong các đường dẫn mật về phía này phía nọ.
Một phần mật được tích ở túi mật. Túi mật dài 12 ~ 18 cm và chứa được 60 ml mật. Song nó có thể dễ dàng phình rộng và chứa được 200 ml mật mà không sao cả. Nó có các sợi cơ, có thể co lại, đẩy mật tới hành tá tràng với áp suất 200 ~ 300 mm cột nước !
Túi mật có khả năng tập trung mật gấp 10 - 20 lần! Thần kinh vận động của túi mật thuộc loại lang thang và được điều khiển bởi dây thần kinh cơ hoành bên phải.
Năng lượng cần thiết để tiết ra mật lấy từ sự hô hấp mô của gan. Mật là bí mật của các tế bào gan. Mật có vị đắng, hơi ngọt; có mùi thơm độc đáo; phản ứng của mật mang tính kiềm yếu. Mật tham gia vào việc tiêu hóa ở ruột: góp phần trung hòa hóa khối thức ăn chua đi từ dạ dày xuống hành tá tràng, nhũ tương hóa chất béo và góp phần hấp thụ mỡ, kích thích nhu động ruột. Nó được đưa ra khỏi máu cùng với các chất ngoại sinh và nội sinh mà khi tích tụ ở trong máu chúng sẽ có ảnh hưởng xấu đến hoạt động của. cơ thể.
b. Thành phần của mật trong túi mật như sau:
- Nước - gần 80%.
- Axít mật - 7%.
- Chất musin (chất nhầy) và sắc tố - 4,1%.
- Phương pháp tự chữa bệnh - Tập 1
- Chết khoáng- 0,8%.
- Chất béo - 3,1%.
- Colesterin - 0,6% và một số chất khác. .
Việc tạo mật diễn ra không ngừng; nó giảm đi khi đói, khi nhiệt độ lên cao; tăng lên khi nhiệt độ bên ngoài xuống thấp, khi tăng cường tuần hoàn chính và khi cần tiêu hóa chất đạm, đặc biệt là chất béo trong thức ăn mới dưa vào.




Nhận xét
Đăng nhận xét