Chuyển đến nội dung chính

THANH LỌC GAN - THEO MALAKHOV - Sách Phương pháp tự chữa bệnh

BỆNH LÝ CỦA GAN

I. SỰ HÌNH THÀNH SỎI MẬT VÀ BỆNH VIÊM ỐNG MẬT

Ta hãy xem xét lần lượt các thành phần của mật. Sau nước, các axít mật chiếm địa vị thứ hai - 7%. Chúng được tạo nên trong gan-từ colesterin. Thuộc tính chủ yếu của các axít mật là hạ thấp hẳn trường lực bề mặt của chất lỏng. Việc giảm hàm lượng axít mật (do các tế bào gan bị tổn thương, giảm khả năng tổng hợp các axít mật, hoặc do mật ứ đọng trong túi mật) là,một trong những nguyên nhân chính tách colesterin và muối canxi ra khỏi dung dịch và tạo thành sỏi mật.

Colesterin là chất cần thiết-cho cơ thể, đi vào thành phần tế bào. Nhưng khi số lượng colesterin qụá nhiều thì sẽ có hại cho cơ thể.

Bây giờ chúng ta biết rằng việc ứ đọng mật hoặc giảm hàm lượng các axít mật trong mật sẽ làm cho trương lực bề mặt của mật tăng lên. Điều đó tạo điều kiện hình thành các dung dịch keo cólesterin, các axít béo, các muối phốt phát và các-bô-nát canxi cũng như các hạt canxi màu vàng khó tan. Nếu hàm lượng các axít mật giảm xuống dưới mức tiêu chuẩn, thì từ dung dịch sẽ tách ra trước hết là colesterin và chất béo.

Nhũ tương colesterin xuất hiện, sau đó cứng dần, và colesterin hóa thành tinh thể trong đó. Nếu bên trong ống mật bị viêm, thì trên cơ sở đó sẽ bắt đầu phát triển các thứ sỏi khác. Theo số liệu của Ashof, sỏi colesterin phát triển trong nhiều tháng, thậm chí trong một vài năm. Khi ống mật và túi mật bị viêm, thì tốc độ hình thành sỏi sẽ nhanh hẳn lên.

Viêm túi mật và viêm ống mật trong-đa số trường hợp sẽ tiến triển, khi trong đó có sỏi và các vi thể lọt vào túi mật chủ yếu từ đường ruột.

Căn cứ tài liệu mổ xác, B. Eidell khẳng định rằng cứ 10 người có 1 người bị sỏi mật. Sự hình thành sỏi mật cơ bản tùy thuộc vào chế độ ăn uống và bắt đầu từ 16 ~ 20 tuổi; còn ở lứa tuổi bảy mươi thì cứ ba người có một người bị sỏi- mật.

Theo tài liệu của I.P.Pavlov, Briuno, N, N. Klađináki, thành phần của mật cũng như việc đưa nó từ ruột ra phụ thuộc trực tiếp vào tính chất của thức ăn. Ví dụ khi ăn thức ăn giàu chất béo và chất đạm, mật tiết ra sẽ đậm-đặc hơn, có nhiều colesterin và sắc tố bilirubin màu vàng.

Phụ nữ mắc bệnh túi mật nhiều gấp 6 lần nam giới ! Việc mang thai tạo điều kiện dễ dàng cho việc hình thành sỏi mật, bởi vì mật bị ứ đọng trong túi mật (tử cung lấn chỗ các cơ quan trong khoang bụng, làm tăng áp suất vùng bụng, làm thay đổi vị trí của túi mật-và ống mật). Do hàm lượng colesterin trorig máu tăng lên vào mấy tháng cuối thời kỳ mang thai và thời gian đầu sau khi sinh, mà-chức năng của gan phần nào bị rối loạn. Đặc điểm của việc hô hấp ở nữ giới, và nam giới cũng, lý giải vì sao nữ bị bệnh sỏi mật nhiều hơn nam, nữ thường thở bằng ngực, không thở sâu bằng bụng như nam giới; sự lên xuống của cơ hoành góp phần đẩy mật chảy trong ống mật.

Chứng loạn vận động của các đường dẫn mật dẫn tới: việc làm cạn mật trong túi mật. Cơ sở của chứng loạn vận động ấy là sự thay đổi hoạt động của hệ thần-kinh trung ương. Sự co lại nhịp nhàng của cơ túi mật với cơ thắt ống và việc mật chảy vào ống mật chủ và hành tá tràng khi đó sẽ bị rối loạn. Ngoài ra, có thể là sự yếu cơ của các đường dẫn mật. Sự yếu cơ này có thể là do đặc điểm cơ địa, do lối sống (ngồi làm việc), nhưng chủ yếu là do thiếu, thức ăn tự nhiên (là thức thức ăn giàu chất khoáng, vitamin và các chất chất dinh dưỡng khác)!

Khi thực hiện việc làm sạch các đường dẫn mật, từ trong cơ thể bạn sẽ đi ra những thứ sỏi khác nhau. Bạn hẳn muốn biết các thứ sỏi ấy như thế nào, đi từ đâu ra, được tạo thành từ cái gì và: tại sao lại được tạo thành.



Sỏi mật trong túi mật có hình tròn; sỏi mật trong ống mật có dạng nhánh và dập đúng khuôn như ống mật. Trong gan; trong các ống mật và trong túi mật thường gặp các sỏi mật cứng, tua tủa, có dạng nhánh, màu đen. Việc làm sạch sẽ “băm nhỏ” chúng, và chúng sẽ đi ra dưới dạng các hạt hướng dương hoặc giống các hạt cát, đen như bụi than với đường kính 6 mm. Về thành phần, sỏi mật chia ra các loại: sỏi colesterin, sỏi colesterin-sắc tố, sỏi sắc tố-vôi, sỏi vôi.

Sỏi colestés Hn có độ lớn từ bằng hạt đậu đến bằng trái mận, hình tròn, bề mặt phẳng, màu trắng hoặc vàng nhạt,! thường gặp trong túi mật. Chúng mềm, nhẹ, trôi trong nước. Nguyên nhân tạo thành - mật có quá nhiều colesterin, hoặc giảm số lượng axít mật, hoặc mật bị ứ đọng.

Sỏi colesterin-sắc tố là loại sỏi mật phổ biến nhất, xuất hiện rất nhiều và có hình dạng nhiều cạnh không đều, độ lớn; thì từ bằng đầu kim băng tới hạt đậu to; màu trăng trắng hoặc nâu nâu và xanh sẫm. Nguyên nhân tạo thành: thường là do nhiễm trùng và viêm túi mật cùng ống mật; Cũng có thể không phải do viêm nhiễm, mà là do sử dụng các thực phẩm không đúng, khẩu phần ăn thiếu rau tươi.



Sỏi sắc tố-với có màu xanh đen, mỏng mảnh, nhiều hình dạng. Thoạt đầu chúng hình thành trong các đường dẫn mật ở: gan, không có chất colesterin, mà là hỗn hợp chất đồng và canxi. Các viên sỏi này có đường kính từ 7 dấn 60 micron, gồm gốc protein, các men mật và vôi. Nguyên nhân tạo thành có các hạt khác lạ từ ruột đi vào máu, rồi trong máu chúng liên kết với các protein, các men mật và lặng lẽ đi qua ống mật.

Hiếm gặp nhất (thật là may !) là các sỏi vôi thuần túy. Chứng màu trắng, cứng và phát triển trên cơ sở bị viêm. Canxi (vôi) bắt nguồn, từ thức ăn nấu chín.

Ở gan, các ống mật đầu ra liên thùy đi bên cạnh các mạch máu liên thùy, và khi nối với nhau, chúng thoạt tiên tạo nên ống thùy phải và ống thùy trái, sau đó tạo nên ống chung của gan.



Hệ thống đường dẫn mật bên trong gan của thùy trái và thùy phải của gan được phân định rất rạch ròi. Ống mật thùy bên phải tiếp nhận mật từ ống phía trước và ống phía sau. Phạm vi lãnh thổ mà mỗi ống mật ấy phục vụ gọi là thùy gan. Mỗi thùy thu lượm mật từ các ống đầu ra liên thùy trong phạm vi thùy. Giới hạn giữa các thùy thường là không hề bị vi phạm bởi đường dẫn mật, bởi các động mạch hoặc bởi các tĩnh mạch cửa.
Từ dây, một lần làm sạch sẽ “dọn dẹp” một thùy. Mà có cả thảy 4 thùy. Bởi vậy, để làm sạch gan, tốt hơn cả là nên làm sạch tối thiểu 4 lần.

Tăng áp lực tĩnh mạch của và các hậu quả của nó


Lối-ăn uống hiện đại làm cho máu của chúng ta chua hơn (độ pH tiêu chuẩn của máu chỉ mang tính kiềm yếu), mất đi một số lượng đáng kể các chất khoáng sống, ( Thực phẩm “sống” khác thực phẩm “chết” ở chỗ có trường sinh-nguyên chất, mà trường này biến mất khi chế biến băng nhiệt. Gác nguyên tử trong chất khoáng “sống”- hữu cơ, ở cấp độ năng lượng cao hơn và có sự quay trái. Các nguyên tử trong chất khoáng “chất” không được như vậy), các vitamin và nhiều chất khác. Lối sống ít vận động và trạng thái nói trên cửa máu dẫn tới chỗ làm rối loạn hệ tiết mật, áp suất của mật trong ống mật thường tăng lên đến 750 ~ 800 mm cột thủy ngân (gần như áp suất khí quyển 1) Nồng độ của mật có thể tăng lên gấp 20 lần và cao hơn thế. Những chất có nồng độ như vậy dễ kết tủa. Thoạt tiên là chất colesterin bắt đầu kết thành tinh thể, tiếp đến sắc tố bilirubin màu vàng với các sảnphẩm oxy: hóa của nó, các muối, vôi. Ba thứ ấy là thành phần chính của sỏi mật sỏi cứng và mềm lắng đọng trong ống gan, trong túi mật và ống mật. Gan bị các thứ sỏi cứng và mềm ấy hành hạ, các mô xung quanh bị đè nén, vì áp suất của mật trong ống mật có thể tăng cao bằng áp suất khí quyển ! Điều đó cản trở dòng máu động mạch mang ôxy theo các động mạch gan, nhất là cản trở dòng máu trọng tĩnh mạch cửa mang các chất dinh dưỡng từ ruột, rốt cục làm tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
Ta hãy xem "Đại bách khoa toàn thư y học” giải thích thế nào là tăng áp lực tĩnh mạch cửa.

• Tăng áp lực tĩnh mạch cửa là áp suất máu tăng lên ở tĩnh mạch cửa. Nó là hậu quả (nguyên nhân thì tôi đã miêu tả phía trên,  tác giả) của việc dòng máu khó lưu thông qua gan do các trở ngại cơ học khác nhau, chẳng hạn như do.sự hình thành các cục nghẽn mật trong ống mật, sự ngấm protein của gan. Các khối protein lắng đọng trong gan sẽ đè ép các tế bào nội mô, làm cho chúng teo đi, dẫn tới tổ chức lại cơ cấu của gan. ( Khẩu phần ăn giàu protein có thể dẫn tới hậu quả thế đó, nhất là khi bạn ít vận động thể lực).
Một phần máu không đi qua gan theo tĩnh mạch cửa sẽ phải đi vòng (gọi là tuần hoàn bằng hệ hoặc tuần hoàn phụ cận) theo các tĩnh mạch nối trên, tĩnh mạch nối dưới, tĩnh mạch trực tràng và các tĩnh mạch khác, (xem hình 5)


Xuất hiện sự tăng ứ đọng ở lá lách (gây rối loạn chức hãng lá lách), sự ứ đọng ở hệ tĩnh, mạch tuyến tụy dẫn đến sự lọan dưỡng và rối loạn chức năng tuyến tụy (liệu đây có phải là nguyên nhân chính của bệnh đái tháo đường khó trị - những người bị đái tháo đường hãy chú ý điều nấy !) Sự ứ đọng ở tĩnh mạch dạ dày-và ruột sẽ phá vỡ tính chế tiết và tính hấp thụ của các cơ quan ấy (liệu đây có phải là nguyên nhân tiêu hóa và hấp thụ thức ăn kém hay-chăng - những người bị rối loạn chất dinh dưỡng hãy lưu ý). Điều đó cũng dẫn tới xuất huyết mạnh (nhất là từ các mạch dạ dày, ruột, thực quản, trực tràng), kinh nguyệt ra nhiều ở phụ nữ, các cục nghẽn ở chân và bệnh trĩ. Áp suất động mạch tụt (những người bị bệnh huyết áp hãy lưu ý).

Do các tế bào gan teo đi vì bị đè và vì thiếu chất dinh dưỡng tại chỗ, mà sự trao đổi chất bột, chất đạm, chất béo, chất khoáng và nước sẽ tồi hẳn đi. Ở đây khỏi cần liệt kê các căn bệnh xuất hiện vì sự rối loạn trao đổi chất đó, thì cũng đã rõ hậu quả đáng sợ một khi gan của chúng ta bị nhiễm bẩn và tắc nghẽn.


1) Chẩn đoán bệnh sỏi mật


Triệu chứng điển hình nhất của bệnh sỏi mật là các cơn đau sỏi hoặc đau gan dữ dội.
Cơn đau sỏi kéo dài từ vài phút đến vài giờ. Thường thường cơn đau xuất hiện đột ngột, thi thoảng có dấu hiệu báo trước, như ăn không ngon miệng, buồn nôn, nặng ở dưới ức, cảm giác căng căng ở vùng dưới sườn bên phải (có lẽ là do túi mật đầy mật).

Nguyên nhân gây cơn đau sỏi mật là sự mệt mỏi quá độ về thần kinh và thể lực; cảm xúc mạnh, cơ thể bị lạnh; dạ dày căng đầy thức ăn, nhất là có lẫn nhiều chất cay. Ở phụ nữ, cơn đau sỏi mật thường trùng với thời gian hành kinh hoặc xuất hiện sau khi sinh nở. Cơn đau sỏi mật thường xảy ra vào buổi tối, chừng 3 ~ 4 giờ sau bữa ăn chiều, là khi mà gan và túi mật hoạt động chức năng tối đa, tức là khi mật được rót nhiều nhất vào hành tá tràng.

Tính chất của cơn đau khá đa dạng : đau nhói, đau xé, đau dữ dội như muốn rứt ra từng phần cả vùng bụng bên phải; thoạt tiên cơn đau lan rộng, sau đó tập trung ở các điểm đánh dấu trên hình 6.

Cơn đau sỏi mật thường kèm theo nôn mửa, thoạt tiên nôn ra thức ăn, sau đó nôn ra chất nhầy và mật, có khá nôn ra khá nhiều mật cùng với các hạt sỏi mật nhỏ.

Người bệnh thường than phiền về chân tay lạnh. Một số người có thể bị co giật cơ mắt cá chân và cơ các ngón tay.


2) Chẩn đoán bệnh viêm gan mạn tính


Cơ thể :yếu hẳn đi, kém ăn, đôi khi đắng miệng, rát bỏng vùng, thượng vị. Nhiều khi buồn nôn, táo bón, đôi khi ỉa chảy. Khi bệnh kịch phát thì ngứa da, nhiệt độ cơ thể 37,1 ~ 37,6 °C.
Thường thường hệ thần kinh có rối loạn: tâm trạng ủ ê, dễ toát mồ hôi, dễ phát bẳn, giấc ngủ chập chờn, ở 33% số bệnh nhân được khám, nhất là vào thời kỳ kịch phát, có thể thấy triệu chứng trên lừng bàn tay, đó là ở gò Kim tinh (gốc ngón cái) và gò Thủy tinh (gốc ngón út) da đỏ hồng lên; đồng thời xuất hiện triệu chứng các “vết sao”.

Các “vết sao” (*) trông như các chân nhện, kích thước (đường, kính) dao động từ bằng đầu kim băng đến hạt đậu; thường xuất hiện trên mặt, trên vai và lưng. Khi chức năng của gan trở lại tình trạng tốt, các “vết sao” ấy sẽ tự biến mất.

Trong bệnh viêm gan mạn tính, khớp và phổi cũng dễ bị viêm.

3) Loạn vận động đường dẫn mật


Triệu chứng chung: rối loạn thần kinh, đau ở dưới sườn bên phải. Hình thức nhược trương - đau thường xuyên ở mạng sườn bên phải, buồn nôn, ợ chua, táo bón.
Hình thức tăng huyết áp : đau từng đợt, hay buồn nôn, ỉa chảy luân phiên với táo bón.

4) Viêm túi mật và Ống mật


Trước khi xuất hiện các cơn đau - có cảm giác nặng ở vùng ức sau khi ăn 1 ~ 3 giờ, kèm theo trướng bụng, ớn lạnh và mệt sau khi ăn; ỉa chảy, đặc biệt thường xảy ra sau khi ăn các món rán. Cũng có thể nhận biết tình trạng da bị nhiễm sắc vàng (ở mặt, như hai mí mắt, hai má, môi; ở khuỷu tay, ở các ngón tay). Cũng có thể thấy các ngón tay bị sưng phồng lên.

Bây giờ căn cứ các triệu chứng kể trên, bạn có thể tự đánh giá tình trạng sức khỏe của gan và túi mật của mình. Khi xuất hiện các triệu chứng ấy, bạn phải tìm cách ngăn chặn, điều chỉnh, không cho tiến triển thêm. Nếu bạn thiếu tự tin, thì hãy tới khám bệnh để bác sĩ chẩn đoán.


LÀM SẠCH GAN

LÀM SẠCH GAN




Nhiều người cho rằng gan của họ ổn thỏa đâu vào đấy. Đó là một sai lầm lớn. Kinh nghiệm của tôi và nhiều vị khác đã cho thấy như vậy.

Sỏi mật bám vào gan rất chắc, không dễ gì tống nó ra ngoài. Tôi chẳng hạn, trước khi làm sạch gan, tôi đã nhịn đói mấy lần 7 ngày, 1 lần 10 ngày, 1 lần 18 ngày và 10 lần 3 ngày; ngoài ra trong vòng 3 năm, mỗi tuần tôi đều nhịn ăn 24 ~ 36 giờ. Còn anh bạn tôi thì thực hiện nhịn đói 3 lần 19 ngày cách nhau 2 tháng.
Vậy mà khi tôi và anh ấy bắt đầu làm sạch gan, từ gan đã tống ra ngoài nửa-lít sỏi.

Cùng với sỏi còn tống ra rất nhiều mật cũ, trông đen y như mồ hóng, bông và các chất bẩn khác.

Điều đó khẳng định việc làm sạch gan là cần thiết.

Hiệu quả làm sạch gan là kỳ diệu. 

Tôi chẳng hạn, sau khi làm 5 lần trong năm đầu tiên (tôi làm sạch gan cả thảy 8 lần), tôi cảm thấy mình khỏe mạnh thoải mái hơn bao giờ hết trong vòng 5 năm qua; cả cơ thể như được đổi mới, nhẹ nhõm vô cùng; tôi hiểu ra thế nào là sức khỏe đích thực. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể việc làm sạch gan, liệu có nguy hiểm không và do đâu có được hiệu quả.


I. CƠ CHẾ SINH LÝ HỌC ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG VIỆC LÀM SẠCH GAN

Những người phản đối việc làm sạch gan viện cái cớ chính như sau: ống mật chỉ có đường kính 3 ~ 4 mm, còn các viên sỏi đi ra thì có đường kính từ 20 mm trở lên, lại đi ra một cách dễ dàng, thế thì không bao giờ có chuyện đó !

Khi ta bảo họ rằng chính mắt ta nhìn thấy các viên sỏi mật, thì họ bảo không, đó là các u phân đi từ ruột già ra. Họ dọa ta rằng có thể ta sẽ làm tắc ruột hoặc gặp những rắc rối khác. Tiếc rằng họ không hiểu gì về sự làm sạch gan cả.

Chúng ta hãy trở lại với cuốn sách nhỏ Khoa sức khỏe, số tháng 4 năm 1986, ở trang 34, viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm Y học Liên Xô, giáo sư, chủ nhiệm bộ môn bệnh nhiễm khuẩn của Trường đại học Y Leningrad mang tên Pavlov, Evgeni Petrov Shuvalov, có miêu tả việc tẩy rửa ống mật gọi là phương pháp “Duybash” mà các bác sĩ áp dụng rộng rãi.

1) Phương pháp “Duybash” như sau :


Buổi sáng chưa ăn gì, cho người bệnh uống 200 ~ 250 ml nước khoáng đựng trong chai đã được mở nút chai từ trước (không có ga hoặc ít ga) với nhiệt độ trong phòng. Có thể pha vào nước khoáng 5 gr magie sunfát hoặc socbiton để giải phóng túi mật mạnh hơn. 15 ~ 20 phút sau lại cho uống nước khoáng với liều lượng như lần đầu.

Sau khi uống nước khoáng, bệnh nhân nằm trên giường chừng một giờ rưỡi đến 2 giờ với túi nước nóng chườm vùng mạng sườn bên phải. Nhắc lại, có thể áp dụng phương pháp “Duybash” với việc sử dụng các tác nhân kích thích là magie sunfat, hoặc socbiton, hoặc nước sắc lợi tiểu.

Những thứ có tác dụng mạnh, bảo đảm tống mật ra ngoài, là lòng đỏ trứng, đầu thực vật, magie sunfat, muối “Barbara” và muối “Karlovari” 40 ~ 50 ml dung dịch 33% magie, hâm nóng tới 40° C, có tác dụng co hẹp túi mật (cơ thắt Liutkens) và ống mật chủ (cơ thắt Oddi). Người nào dị ứng với magie, thì cho họ uống dung dịch đậm đặc có pha đường, glucoza, socbiton, xilit hoặc dầu ôliu.

Có tác dụng mạnh nhất trong việc mở cơ thắt Oddi và làm sạch túi mật là chất béo và thức ăn dang được tiêu hóa trong ruột.

Toàn bộ thông tin kể trên mang tính khoa học chính xác. Qua đó chúng ta biết rằng vậy là có thể rửa sạch ống mật.

Còn bây giờ chúng tạ hãy xem kinh nghiệm của y học dân gian.

1. Xuất phát từ điều trình bày trên, chứng ta cần chất lợi mật, thống mật mạnh. Các thầy thuốc nhận thấy việc uống một lượng lớn đầu thực vật (đặc biệt dầu ô-liu) sẽ có tác dụng thống mật mạnh mẽ: co hẹp túi mật và mở tối đa mọi ống mật.
2. Các axít góp phần thải mạnh mật ra khỏi gan. Axít nitric (có trong nước chanh vắt) kích thích chức năng đó, hơn nữa lại còn hòa tan các chỗ lồi cứng và các chiếc móc giữ sỏi mật trong ống mật.
3. Chườm nóng là cách tốt nhất chống viêm và giảm co giật trong gan. Muốn vậy, 3 ~ 4 giờ trước khi làm sạch gan, ta chườm nóng vùng gan và tiếp tục chườm ấm sau khi uống dầu và nước chanh. Hơn nữa, chúng ta biết rằng 90 ~ 99% sỏi mật là colesterin. Hơi ấm sẽ làm sỏi mật tan chảy, gan sẽ không bị co giật mà sỏi mật vẫn dễ dàng thông qua các ống mật.
4. Ống mật có hệ cơ bằng phẳng, có khả năng phình rộng tới 2 centimet đường kính, và khi co hẹp nó có thể tống mật ra với áp suất 300 mm thủy ngân, trong trường hợp cấp bách áp suất có thể dạt tới 800 mm cột thủy ngân !
5. Có thể có sự phát triển ngược - làm tiêu tan các sỏi mật trên cơ sở làm tan chất keo, gây nứt vỡ. Sỏi mật sẽ vỡ vụn, sẽ hòa tan một phần trong mật bình thường, ở đây có thể hành động theo hai hướng :
a) Tăng số lượng những axít mật có khả năng giảm trương lực bề mặt của mật, nhờ đó góp phần làm tiêu tan sỏi mật,
và b) tăng cường bảo vệ chất keo.

Ta hãy xem xét từng phương án.

a. Phương án A

Mỡ người nóng chảy ở nhiệt độ 15 °C (với nhiệt độ của cơ thể thì mỡ ở dạng lỏng), chứa gần 70% axít olêic. Axít olêic thuộc loại axít béo chưa bão hòa;(chưa no). Các axít béo chưa no có hai tính chất sinh học quan trọng như sau :
- Góp phần biến colesterin thành liên kết dễ hòa tan và do đó tạo điều kiện đẩy nó ra khỏi cơ thể
- Có tác dụng bình thường hóa thành mạch máu, tăng cường tính đàn hồi của nó và giảm độ thẩm thấu của nó. Axít olêic nóng chảy ở nhiệt độ 13 °C, hơn nữa, hầu như là axít béo duy nhất nằm trong thành phần các chất mỡ động vật; bởi vậy hàm lượng axít olêic trong mỡ động vật là nhân tố chính quyết định nhiệt độ nóng chảy của chúng. Giàu axít olêic hơn cả là dầu ô-liu (80 ~ 81%), còn đầu hướng dương chỉ có 39% axít olêic. Axít olêic hầu như được thấm toàn bộ vào ruột và dễ dàng được cơ thể sử dụng trong việc trao đổi chất:
Từ phần này, chúng ta thấy rõ chúng ta đi theo con đường tăng mạnh những axít béo chưa no - những axít này tác động như các axít mật, sẽ hòa tan colesterin trong lần làm sạch gan, đã thế còn tăng tính đàn hồi của cả thành mạch máu lẫn thành ống mật. Hơn nữa, chúng đồng loại với cơ thể, cho nên tốt nhất là ta hãy sử dụng các sản phẩm tự nhiên có chứa axít olêic. Mà sản phẩm tốt nhất chính là dầu ô-liu.

b. Phương án B

Trong tự nhiên có các chất bảo vệ, về cơ bản là các liên kết cao phân tử, như chất dđạm, polisacarit, và các chất có hoạt tính bề mặt thấp phân tử, như nátri oleat, kali oleat, saponin... Những chất bảo vệ ấy tụ tập trên mặt chất keo, phủ nó bằng một màng dung hợp. Màng bảo vệ được hình thành kiểu đó sẽ ngăn chặn các hạt keo không cho chúng dính vào nhau hoặc lắng đọng xuống. Như ta biết, mật chứa 84% nước. Số nước đó cần chứa no các chất bảo vệ kể trên, để khi chúng lọt vào các kẽ nhỏ của sỏi mật sẽ làm tiêu tan chất keo, tiếp đó hòa tan chúng.

Nguồn gốc các chất bảo vệ :
- Nước vắt từ rau quả và trái cây tươi
- Nước tiểu của chính mình vừa đi ra. .

Những chất nhuộm màu trong nước tiểu là các hạt nhỏ nhất của chất hữu cơ. Số nước tiểu đi ra trong một ngày đêm chứa chừng 1 gr chất nhuộm màu. Bởi vậy, nước tiểu của chính mình là thứ giàu chất bảo vệ và dễ kiếm hơn cả. Tốt nhất nên sử dụng nước tiểu có màu hơi vàng vàng cố hữu của nó. Trong nước tiểu không màu thì chứa ít chất bảo vệ, cho nên ta không dùng.

Vậy là chúng ta đã xem xét các cơ chế sinh lý chủ yếu của việc-làm sạch gan. Song vẫn còn 5 cơ chế phụ.

6. Nước chanh có vị chua mạnh. Theo khẳng định của y học cổ truyền Trung Hoa, vị chua kích thích chức năng của gan. Hơn nữa, tinh dầu nước chanh vừa có tác dụng thống mật, vừa có tác dụng sát trùng.

7. Theo khẳng định của các chuyên gia châm cứu Trung Quốc, gan và .túi mật hoạt động mạnh nhất từ 23 giờ đêm đến 3 giờ sáng. Đó là nhịp điệu sinh học của gan và túi mật.

8. Bằng cách tự ám thị cho mình, rằng các ống mật dang phình ra, mật đang được thải ra nhiều, đồng thời ta dùng ý nghĩ dưa năng lượng tới đó, chúng ta sẽ tăng cường hiệu quả.

9. Theo học thuyết của các nhà yôga, nếu chỉ thở bằng 15 mũi bên phải sẽ có tác dụng làm ấm cơ thể và tăng cường khả năng phân hủy của nó.

10. Sự tạo mật và tiết ra mật sẽ tăng lên khi tăng cường tuần hoàn nội tạng và khi có chất béo trong thức ăn. Có thể thực hiện điều kiện này, nếu sau khi ăn và uống nước chanh một thời gian, chúng ta tập thở thong thả và đều đặn theo kiểu yôga, chú ý để cơ hoành nâng lên thật cao lúc thở ra.

11. Thời gian trăng tròn sẽ tăng khả năng làm sạch của cơ thể. Chức năng của gan mạnh nhất vào mùa xuân, yếu nhất vào mùa thu (vì gan thuộc Mộc, thuộc mùa xuân, bị Kim - mùa thu - khắc chế,- N-D.)
Bây giờ chúng ta chuyển sang miêu tả cụ thể việc làm sạch gan.

2) Làm sạch gan đơn giản và hiệu quả nhất


Khi nói về cơ chế sinh lý của việc làm sạch gan, chúng tôi đã nhắc đến các thực phẩm lý tưởng, song cũng còn các chất thay thế đủ giá trị mà bạn hãy cứ mạnh dạn sử dụng.

Về đầu, có thể sử dụng đầu hướng dương (loại tinh chế, loại không tinh chế), về nước chanh, có thể dùng tinh thể axít nitric, cũng như các sản phẩm tự nhiên có vị chua mạnh như quả nham lê, phúc bồn tử v.v. Thực tế chứng tỏ làm sạch gan bằng các sản phẩm ấy cũng có hiệu quả chẳng thua gì dùng dầu ô- liu và nước chanh. Tôi và nhiều người khác từng dùng các sản phẩm thay thế vừa kể đều thấy như vậy. Bởi vậy bạn cứ mạnh dạn sử dụng đầu hướng dương, dầu ngô, bột axít nitric (hòa với nước sao cho giông như nước chanh tự nhiên vậy), và những thứ trái cây có vị chua mạnh ở địa phương của bạn.

 Toàn bộ bí quyết và hiệu quả làm sạch gan nằm ở công tác chuẩn bị sơ bộ - làm dịu cơ thể. Làm dịu cơ thể bằng cách ngâm nước ấm, cần thực hiện tối thiểu 3-4 lần. Mỗi lần ngâm nước ấm đều kết thúc bằng việc giội qua nước mát. Như thế, ngay từ lần làm sạch đầu tiên, sỏi mật và các thứ bẩn nhất định sẽ được tống ra khỏi cơ thể. Lần ngâm nước ấm cuối cùng diễn ra một ngày trước khi làm sạch gan.

Nếu 3-4 ngày trước khi làm sạch .gan, bạn ăn chủ yếu thức ăn thực vật và uống nhiều nước ép rau quả (như nước củ cải, ăn dăm trái táo loại chua chua) và tiến hành thụt tháo (bằng nước tiểu), thì công tác chuẩn bị sơ bộ của bạn coi như đạt mức lý tưởng.

Cuối cùng đến ngày thực hiện làm sạch gan. Tốt hơn cả đó là vào dịp trăng tròn, bản thân bạn cảm thấy khoan khoái và bình tình. Buổi sáng, sau khi làm vệ sinh cá nhân, tiến hành thụt. Sau đó uống nước vắt rau quả rồi ăn điểm tâm nhẹ. Bữa trưa cũng ăn nhẹ và sau đó 1 - 2 giờ thì bắt đầu dùng túi nước nóng (hoặc túi sưởi bằng diện) chườm ấm vùng gan, cứ thế cho đến tối.

Chừng 19 ~ 20 giờ tối, hãy bắt đầu thao tác làm sạch gan. Dầu và dung dịch axít nitric đã được hâm nóng đến nhiệt độ 35 - 40 °C. Liều lượng do bạn tự chọn tùy vào thể trọng và khả năng chịu dầu của cơ thể bạn.

Vậy là tất cả đã sẵn sàng, trước mặt là 2 cốc, một cốc dầu, một cốc nước chanh. Bạn hãy uống một-hai ngụm dầu và một hai ngụm nước chanh. Khoảng 15 - 20 phút sau, nếu không buồn nôn, hãy lặp lại. Chờ 15 - 20 phút lại làm tiếp, cứ thế cho dến khi uống hết đầu và nước chanh. Bạn hãy bình thản ngồi xem tivi hoặc đọc sách.

Nếu bạn không chịu nổi việc uống dầu và sau khi uống một hai ngụm đầu tiên đã buồn nôn, thì bạn đành phải chờ khi nào hết cảm giác khó chịu đó hãy uống tiếp. Gông việc bị kéo dài, không có gì đáng ngại, thậm chí còn có lợi. Song giả sử không hết buồn nôn, thì tạm giới hạn ở số lượng đã uống vào bụng vậy, cứ tạm coi là đủ. Túi chườm ấm có thể giữ nguyên hoặc bỏ ra.



Sau khi uống hết đầu và nước chanh (số lượng dao động từ 100 gr đến 300 gr), có thể.thực hiện hàng loạt biện pháp tăng cường hiệu quả. Chừng 1 ~ l giờ rưỡi sau khi uống hết, hãy ngồi ở tư thế tiện lợi (tốt nhất là xếp chân bằng tròn), dùng bông đút nút lỗ mũi bên trái và chỉ thở qua lỗ mũi bên-phải. Ngậm một trái ớt hơi cay; đồng thời tưởng tượng rằng bạn đang phóng một luồng lửa vào vùng gan. Bạn hãy thở chậm và đều (4 ~ 6 lần một phút), buộc cơ hoành hoạt động tích cực.

Phình bụng khi hít vào và thót bụng khi thở ra, bằng cách đó bạn sẽ mátxa tuyệt vời cho gan, tăng cường tuần hoàn cho nó và rửa sạch các chất cặn, chất xi đọng trong đó. Thở như thế chừng 15 ~ 30 phút, nghĩ một giờ rồi lặp lại. Trong thời gian nghỉ hãy đặt một miếng nam châm ở vùng gan.

Liệu pháp từ tính là nhân tố quan trọng có tác dụng tăng cường tuần hoàn mao mạch. Các nhà khoa học đã xác định rằng nếu chỉ nhờ áp suất máu thì các hồng cầu không, thể đi qua các mao mạch. Cơ chế chính của sự chuyển dịch .hồng cầu là : áp suất ở cuối mao mạch sẽ làm cho các hồng cầu tiếp cận gần nhau. Sau đó, vì chúng là các diện tích cùng dấu, nên chúng đẩy nhau về phía có mật độ nhỏ hơn và nhờ đó mà chúng chuyển dịch trong mao mạch.

Lợi dụng cái đó để cải thiện tuần hoàn trong gan, nơi có hệ mao mạch đặc biệt, là điều rất quan trọng. Hơn nữa, từ trường sẽ tích cực hóa các chất men giữ vai trò quan trọng trong qui trình làm sạch gan. Tất cả những thứ đó cộng lại - chườm nóng, tích cực hóa các chất men, tăng tuần hoàn, tăng diện tích hồng cầu, cung cấp nhiều điện tử tự dò - sẽ cho phép băm vụn, làm tan chất, rửa sạch và tống ra khỏi cơ thể mọi thứ rác rưởi và sỏi mật.

Các biện pháp ấy cho phép tác động tới các cấp độ lượng tử sâu nhất của cơ thể chịu trách nhiệm về hoạt động sống và sự phục hồi. Không một quy trình làm sạch nào có ảnh hưởng mạnh mẽ như qui trình kể trên. Vào khoảng 23 giờ hoặc muộn hơn (có khi gần sáng), khi nhịp điệu sinh học của gan và túi mật đạt mức tối đa, sỏi mật và các thứ cặn bã sẽ bắt đầu được tống ra. Bạn sẽ nhìn thấy thứ “tài sản” đáng sợ đó do lối sống sai trái và do chế độ ăn uống sai lầm tạo nên; bạn sẽ lập tức hiểu rằng rằng không thể tiếp tục sống hoặc nói về sức khỏe, nếu cái thứ “tài sản” ấy còn ở trong cơ thể.

Thông thường sáng hôm sau còn tống ra một số lượng sỏi và bồ hóng nhiều hơn nữa. Bạn hãy thụt thêm một lần, nghỉ một chút rồi ăn. Bữa ăn đầu tiên nên là 0,5 lít nước cà rốt (hoặc nước củ cải - nước táo). Nước đó sẽ rửa thêm gan thật sạch. Chỉ sau đó mới có thể ăn xalát, chất và trở lại sinh hoạt bình thường.


3) Lời khuyên thực tế về việc làm sạch gan


Thực tiễn cho thấy, đối với nam nữ có thể trọng 60 ~ 65 kg, tùy vào mức độ tiếp nhận đầu thực vật của cơ thể, lần đầu tiên làm sạch gạn hãy uống từ 150 ~ 200 gr dầu để khỏi nôn. Những lần sau có thể tăng lượng dầu uống vào lên đến 300 gr; hoặc cứ giữ nguyên như lần đầu cũng không sao.

Nếu một lúc sau bạn buồn nôn và trong hỗn hợp nôn ra có các chất nhầy (màu xanh lá cây, màu đen hoặc màu khác), thì điều đó chứng tỏ đầu và nước chanh đã phát huy tác dụng trong dạ dầy, đã làm sạch dạ dày khỏi các cặn bã bệnh lý. Đó là điều xảy ra ở một số người trong lần đầu tiên làm sạch. Lần thứ hai hãy uống dầu ít hơn, lần thứ ba hãy tăng thêm một chút.

Trong lúc làm sạch, hãy thư giãn, bình tĩnh và đừng để ý. Thường thường làm sạch bằng đầu và nước chanh sẽ không gây ra đau đớn gì hết. Lúc tống ra, đôi khi bạn có thể cảm thấy đường như lá gan đang “thở”, chỉ thế thôi. Bởi vậy bạn đừng sợ, vì sự sợ hãi sẽ làm co giật các mạch và ống mật, sẽ không tống ra được gì cả; và đó cũng là nguyên nhân khác gây nôn ọe. Nếu vì lý do gì đó bạn run sợ, căng thẳng trong lúc chờ đợi, thì hãy uống 2 viên Nospa, thế là yên. Mọi chuyện sẽ tự động diễn ra.

Đừng làm sạch gan sau khi làm việc nặng, sau khi nhịn đói lâu dài. Hãy nghỉ ngơi 3 ~ 5 ngày cho lại sức đã. Nếu không sẽ xảy ra 2 trường hợp; một là bạn chỉ uống đầu và nước chanh như một thức ăn thông thường; hai là bạn sẽ làm cho cơ thể thêm mệt mỏi. Bạn nên nhớ dẫu sao đó cũng là sự can thiệp vào.gan, và gan cần sức để chịu đựng sự căng thẳng cao độ, đó. Bạn sẽ tự cảm thấy nó rung động, "thở” như thế nào, nhất là trong lần làm sạch đầu tiên.

4) Nên làm sạch gan bao nhiêu lần và khi nào


Lần làm sạch đầu tiên là khó khăn nhất, cơ thể phải hao tốn nhiều sức lực.

Thường trong lần làm sạch đầu tiên, sẽ tống ra rất nhiều mật cũ, các chất bẩn, các sợi chỉ trăng trắng, còn các viên sỏi thì hầu như chưa có. Điều đó không có nghĩa là việc, làm sạch kém hiệu quả. Tất cả vẫn đúng chuẩn, chẳng qua là gan bị nhiễm bẩn quá mức, các lần làm sạch tiếp theo sẽ tống sỏi ra.

Các lần làm sạch thứ hai và tiếp theo, bạn hãy làm tùy thích và sẽ dễ dàng hơn hẳn. Ví dụ tôi làm sạch 3 lần đầu tiên với khoảng cách 3 tuần, lần thứ tư - sau 1 tháng, lần thứ năm - sau 2 tháng. Năm sau, tôi làm sạch hai lần; và năm thứ ba tôi làm sạch một lần.

Bạn có thể theo lời khuyên của Andreev, mỗi quý làm sạch một lần. Tôi thì khuyên cứ mỗi tháng, vào kỳ trăng tròn, làm sạch một lần, làm liền 3 ~ 4 lần. Bạn nên nhớ rằng càng chóng giải thoát chất bẩn cho gan bao nhiêu, thì tiêu hóa, tuần hoàn và trao đổi chất càng mau trở nên bình thường bấy nhiêu ! Và cần làm sạch cho đến khi thấy không còn thứ bẩn nào được tống ra nữa.

Đương nhiên bạn sẽ hỏi, tại sao phải làm sạch gan nhiều lần như thế để làm gì ? Đó là vì gan gồm có 4 thùy. Mỗi lần chỉ kịp làm sạch một thùy mà thôi (Xem hình;4). Cho nên phải làm 4 lần. Chỉ cần một thùy chưa được làm sạch, thì một sự trao đổi chất nào đó vẫn chưa thể tốt.

Bạn cũng cần biết đặc điểm này : các viên sỏi ở gan và túi mật được hình thành rất chậm, có dạng hình ống và mép bằng phăng, ở dạng đó, chúng không gây chuyện đáng kể với thành ống mật, không kích thích ống mật. Còn khi làm sạch, bạn làm chúng vỡ ra, bạn đuổi chúng ra. Hình dạng và vị trí của chúng thay đổi, bởi vậy các viên sỏi sần sùi cọ vào thành ống mật và túi mật, gây viêm; đặc biệt là những ai có các hòn sỏi cứng. Phải đến các lần làm sạch sau chúng mới thu nhỏ lại và dễ dàng đi ra ngoài.

Trong cuốn sách cổ “Suvên" của Trung Quốc có viết về gan như sau : “Bệnh gan dễ khỏi vào mùa hè. Nếu mùa .hè không khỏi, bệnh sẽ nặng lên vào mùa thu; mùa thu mà không, chết, thì chờ qua mùa đông. Vào mùa xuân, không được đứng ngoài gió. Người bị bệnh gan tỉnh táo vào lúc rạng sáng, buổi chiều nặng lên, nửa đêm thì yên ổn”.

Xin giải thích : người bị bệnh gan không nên làm sạch gan vào mùa thu. Theo luận điểm, nhịp điệu thời sinh học của Trung Quốc, mùa thu là thời gian gan ; yếu nhất, nếu làm sạch vào thời gian này coi như lấy đi chút sức lực cuối cùng của nó, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người bệnh. Hợp lý nhất (sau khi bạn đã làm sạch 4 ~ 5 lần ở năm thứ nhất) là thực hiện sự làm sạch vào mùa xuân, đặc biệt là tháng 3, khi cây cỏ tràn trề nhựa sống. Đó là lúc gan mạnh nhất: Nhưng vào thời gian đó (mùa xuân) bạn cố gắng dừng ra ngoài gió, dễ tả. Khí mang bệnh không xâm nhập vào cơ thể bạn, không ảnh hưởng xấu tới gan.

5) Ăn uống sau khi làm sạch gan


Sự phòngbệnh

Về việc ăn uống sau khi làm sạch gan, đã nói rồi. Xin nhắc lại - chỉ ăn khi nào thấy ngon miệng, uống nước cà rốt hoặc nước táo hòa nước củ cải đỏ. Táo loại có vị chua thì hơn, vì khi đó hòa với nước củ cải sẽ rất ngon.

Nhìn chung, nước củ cải đỏ là một sản phẩm độc dáo, các chất khoáng trong đó nằm ở các hợp chất kiềm là chính. Khi nghiên cứu tác dụng của ba thứ nước cà rốt, nước bắp cải và nước củ cải dỏ , thì thấy rằng nước củ. Cải đỏ làm cho mật tiết ra nhiều nhất. Tính chất! lợi mật, thống mật của nước củ cải đỏ đã được các thầy thuốc thời, cổ biết đến. Chẳng! hạn, Avitsen viết: “Củ cải đỏ thông nút tắc nghẽn trong gan và lá lách”. Bác sĩ thời nay. Worker thì đã dùng quan điểm khoa học xác định tính chất tẩy sạch" tuyệt vời của nước củ cải dỏ là nhờ thứ hước đó có các nguyên tử clo,“sống”. Các nhà khoa học Nga thì phát hiện trong củ cải.đỏ có chất betain, mà các loại rau củ khác không có. Betain là chất độc nhất vô nhị, có cấu tạo hóa học gần với colin và lesitin là hai chất điều tiết sự trao đổi chất. Chất betain góp phần hấp thụ chất đạm, làm bổ gan.

Trong củ cải đỏ có các saponin liên kết colesterin trong ruột thành phức hệ khó đồng hóa. Nhìn chung thì các saponin là cơ sở dễ chế thuốc chống bênh xơ vữa

Trong củ cải đỏ còn có vitamin U. Vitamin U có tác dụng làm lành vết loét, chống xơ cứng, cải thiện việc trao đổi colesterin giống như metionin, chống dị ứng.

Chất magie có trong củ cải đỏ có khả năng điều tiết trương lực mạch và cản trở: việc hình thành các cục nghẽn trong mạch.

Nhà khoa học Xô-viết B. Pf Tokin bằng vô số thí nghiệm đã chứng minh rằng chất fitonsit trong một vài loại rau quả (trước hết là hành, tỏi, cà rốt) có khả năng diệt trùng. Ăn mấy loại rau quả trên sẽ có tác dụng làm-sạch khoang miệng, dạ dày và ruột khỏi vi trùng. Cà rốt có Ưưu điểm hơn hẳn tỏi và hành ở chỗ nó không có mùi đáng ngại.

Tác dụng chữa bệnh của nước rau quả kể trên sẽ giúp bạn mau chóng phục hồi gan, nhất là ở những người-đứng tuổi.

Tiếp đến xalat làm bằng rau tươi trộn chút nước chanh vắt hơi chua chua, hoặc nước vắt trái nham lê, tảo dẹp: Rồi món cháo. Có thể cho chút bơ, tảo dẹp vào cháo. Có thể ăn bữa trưa và bữa tối nhừ thế. Ngày hôm sau có thể ăxi thêm móhkhác.

Bây giờ; cần chuyển sang cách ăn uống đúng để củng cố gan. Nhìn chung, gan hồi phục rất giỏi. Ví dụ ở chó và các động vật khác, sau khi cắt bỏ 75% mô gan, chỉ sau 8 tuần đã phục hồi hoàn toàn. Song ta cần biết những thức gì đặc biệt có hại cho gan, để loại bỏ chúng khỏi khẩu phần ăn. Đó là : thịt rán, cá rán, nước dùng đậm đặc váng mỡ, đồ hộp, thịt xông khói, món nhắm nhiều mỡ (nhất là đồ để nguội, dồ, ninh nhừ), món ăn giàu tinh bột (nhất là bột mì trắng bột trộn bơ sữa) sẽ làm xơ cứng các mô gan. Khi gan bị bệnh, nó rất khó chấp nhận món đậu hạt: và nấm. Cấm dùng : dấm, ớt, mù tạc (tương hạt cải), đầu, giấm, cải củ,.hành, tỏi, cua, me, cà phê đặc và ca cao, rượu. Các món thức ăn cay  ảnh hưởng xấu đến việc phục hồi gan.
Các thầy thuốc thời cổ ghi nhận rằng các vị có tác dụng kích thích năng lượng khác nhau trong cơ thể, qua đó kích thích chức năng của .các cơ quan. Ví dụ vị chua kích thích chức năng của gan và túi mật. Vị nhạt gián tiếp kích thích-gan. Tác động xấu đến gan là vị chát và vị cay. Khoa học hiện đại xác định rằng thức ăn có vị chát và vị cay sẽ làm tổn thương màng nhầy của dạ dày và hành tá tràng, ngoài gan ra. .
Như-vậy, ai muốn cải thiện chức năng của gan thì nên cố gắng dđưa vào khẩu phần ăn của mình những sản phẩm có vị chua và vị mặn tự nhiên, tránh các món có vị chát và cay.

Đối với những người bị bệnh gan, rất cần các vitamin A, C, B, K. Đặc biệt góp phần bình thường hóa hoạt động của gan là các vitamin nhóm B. Ví dụ vitamin Bg (có nhiều, trong men bia, mầm tiểu mạch) tăng cường chức năng chống độc tố cho gan. Vitamin PP (có nhiêu trong men bia, mầm tiểu mạch, cà chua, lòng đỏ trứng) tham gia trao đổi năng lượng của cấc tế bào gan, không để chúng bị chết. Vitamin B3 (axít folic) và vitamin B tham gia vào sự trao đổi chất dđạm, các men và phản ứng oxy hóa, hỗ trợ việc tổng hợp chất đạm và được coi như các nhân tố phát triển. Đã xác định được ảnh hưởng tích cực của vitamin B12 đối với việc phục hồi của gan. Vitamin K tham gia quá trình đông máu, nâng cao tiềm lực năng lượng của tế bào gan. Vitamin C với liều lượng 1 gr một ngày đêm sẽ giúp gan hoạt động tốt hơn, tăng khả nàăng chống độc tố và khả năng hồi phục.

Khi gan và túi mật bị bệnh, việc hếp thụ chất khoáng bị rối loạn, chất khoáng bị đẩy ra khỏi cơ thể nhiều hơn. Ta cần bổ sung chất khoáng tự nhiên (có nhiều trong nước rau quả).

Chế độ ăn nhạt giảm việc hình thành và đưa các chất men vào hệ dạ dày-ruột từ gan và ống mật, nhờ đó tạo sự yên ổn cho cơ quan bị bệnh.

Khi lập chế độ ăn kiêng cho người bị bệnh gan, rất cần tính đến tình trạng của ruột. Cần loại trừ táo bón. Nếu không, tình trạng táo bón sẽ tăng cường quá trình thối rữa trong ruột, đưa thêm chất độc vào máu, các chất độc ấy sẽ qua tĩnh mạch cửa mà đi vào gan, làm xấu thêm tình trạng của gan; khi đó việc chữa bệnh gan sẽ bị dây dưa kéo dài.

Từ đó rút ra kết luận : tốt nhất nên ăn rau quả tươi. Có tác dụng kích thích tiết mật mạnh là củ cải dỏ, cà rốt, cà chua, bầu bí, súp-lơ, nho, dưa hấu, phúc bồn tử, táo, mận đen. Dùng, thêm mầm hạt tiểu mạch sẽ đẩy nhanh quá trình lành bệnh gan. Trên cơ sở mầm hạt tiểu mạch hãv chuẩn bị món hỗn hợp như sau : cho 100 gr mầm hạt tiểu mạch vào máy xay, rồi Ị00 gr củ cải đỏ, 100 gr mơ khô, 50 gr nham lê (hoặc nước vắt ra từ 1 trái chanh), một chút mật ong để có vị chua chua ngòn ngọt dễ án. Hỗn hợp này ăn thay cháo. Một bữa cháo, một bữa hỗn hợp này. Hỗn hợp có thể gồm các thành phần khác, nhưng 100 gr mầm hạt tiểu mạch là bắt buộc.

Bơ và dầu thực vật chỉ cho thêm vào các món thức ăn sẵn, chứ không phải trong lúc đang nấu nướng.
Hợp lý nhất là chế độ ăn uống 4 ~ 5 lần mỗi ngày, như thế có lợi cho người bệnh gan. Ăn ít bữa sẽ dễ tích mỡ, làm ứ đọng mật, gây rối loạn đường dẫn mật và viêm ống mật.

Vậy thức ăn của bạn là nước rau quả tươi, xalát, cháo và hỗn hợp nói trên. Có thể thấy cháo bằng khoai tây, phó-mát.

Xin nhắc lại một lần nữa, người bị bệnh gan mỗi ngày sử dựng 2 lít nước rau quả tươi, điều đó giúp cải thiện tuần hoàn trong gan và hoạt động chức năng của các tế bào gan; tăng cường khả năng chuyển hóa đường và vận chuyển đường glucoza đến các mô, bình thường hóa :sự trao đổi glucoza; chất đạm, chất béo, chất điện phân. Nước rau quả tươi sẽ làm thay đổi tính chất hóa-lý của mật : giảm độ nhớt, tăng hàm lượng axít mật, giảm nồng độ colesterin trong mật.

Nếu dạ dày tiết ít dịch vị, thì uống nước rau quả tươi 15 ~ 20 phút trước bữa ăn.
Nếu dạ dày tiết nhiều dịch vị, thì uống nước rau quả tươi 1 ~,1 giờ rưỡi trước bữa ăn.
Nếu dạ dày tiết dịch ví bình thường, thì uống nước rau qua tươi 30.~ 45 phút trước bữa ăn. Có thể sử dụng các chất thống mật, lợi mật như : cúc trường sinh, rau bạc hà, rau húng, râu ngô, địa nhĩ thảo, củ bồ công anh-, quả tầm xuân.


- Bài viết trên được trích trong sách Phương pháp tự chữa bệnh - Vì sách hiện không có bán trên thị trường và xét thấy vô cùng hữu ích nên chúng tôi chia sẻ cho mọi người. Nếu thấy hữu ích hãy thể hiện sự biết ơn đến tác giả sách này. Xin cám ơn!

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LÀM SẠCH VÀ PHỤC HỒI RUỘT GIÀ - theo G.P MALAKHOV

LÀM SẠCH VÀ PHỤC HỒI RUỘT GIÀ Trước hết, chúng ta hãy tóm tắt là phục hồi cái gì và trục trặc bắt nguồn từ đâu: 1. Phục hồi sự trong sạch của ruột già và bình thường hoá môi trường PH của ruột già Điều này cho phép thủ tiêu cái ổ chính gây nhiễm bệnh cho cơ thể. Ruột già bị nhiễm bẩn vì sự kết hợp sai lầm các loại thực phẩm, thức ăn nấu chính và thức ăn tinh chế vì sự tiếp nhận sai lầm các thức uống phi tự nhiên. Những thức ăn gây táo bón và sự cố kết mạnh: mọi loại thịt, socola, cacao, bánh kẹo, đường trắng, sữa bò, trứng, bánh mì trắng, bánh ngọt. Tuyệt đối không ăn gấp 2,3 lần , gấp 10 lần , số lượng thức ăn cần thiết. 2. Phục hồi sự nhu động và thành ruột   Ngừng ăn thực phẩm có độc tố, khắc phục tình trạng thiếu thức ăn tự nhiên cần thiết, chấm dứt nhịn đại tiện. 3. Phục hồi hệ vi khuẩn ruột già Điều này dẫn đến:  - Đảm bảo dinh dưỡng - Đảm bảo chức năng tạo nhiệt - Bình thường hoá hệ thống kích thích của ruột già - Tăng cư...

LỜI TÁC GIẢ G.P. MALAKHOV - Tác giả sách PP Tự chữa bệnh.

Tình trạng sức khoẻ của tôi kém dần, không ai giúp được, tôi bèn truy tìm nguyên nhân. Thoạt đầu tôi tìm những sách phổ thông nói về sức khoẻ, sau đó là các tài liệu khoa học chuyên ngành. Dần dần một thế giới kỳ diệu "sức mạnh trị liệu" (chữa bệnh không dùng thuốc) mở ra trước mắt tôi. Từ vô vàn kiến thức lộn xộn, tôi đã sắp xếp lại, sử dụng cho bản thân và chia sẻ giúp đỡ người khác làm theo, ghi nhận những kết quả mà tôi và những người khác đã đạt được. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã đọc vô số công trình độc đáo nói về cách chữa trị bằng ăn uống. Một trăm năm qua đã có những biến đổi lớn khiến con người không được ăn những thức ăn phù hợp với cơ chế tự nhiên của con người. Dạ dày, ruột bị bào mòn, bị làm hỏng, dẫn đến đủ thứ bệnh. Trong đa số trường hợp, hoá ra chỉ cần thay đổi cách ăn uống tự nhiên khỏi bệnh. Hãy nhớ lời người xưa dạy: nếu đau ốm hãy thay đổi lối sống; nếu làm thế vẫn không thấy tác dụng, hãy thay đổi lối ăn uống. Nếu như vậy vẫn không có tác dụng, ...

CÁC KIỂU NHỊN ĐÓI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHÚNG - THEO MALAKHOV - Sách Phương pháp tự chữa bệnh

CÁC KIỂU NHỊN ĐÓI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHÚNG Nhịn đói là phương pháp tự nhiên mạnh mẽ mà các nhà chuyên môn gọi là bảo bối của cách chữa bệnh dân gian. Bệnh nào mà cái đói không chữa khỏi thì không thuốc gì chữa được. Các kiểu nhịn đói khác nhau về mặt lượng và chất. Về lượng, đó là thời hạn thực hiện nhịn đói; về chất, đó là cách thức tiến hành nhịn đói. Chúng ta hãy xem xét cụ thể hai mặt đó. 1) Sự khác biệt về lượng (thời hạn nhịn đói) Mỗi người muốn thực hiện việc nhịn đói đều nêu câu hỏi: cần nhịn đói bao nhiêu ngày để trở nên khỏe mạnh, trẻ trung, để có các khả năng đặc biệt? Lý luận về các giai đoạn của quá trình nhịn đói và phục hồi sẽ cho phép giải đáp câu hỏi cần bao nhiêu thời gian để đạt kết quả dự tính? Nhịn đói có loại hoàn thành trọn vẹn và loại bị bỏ dở. Quá trình nhịn đói và phục hồi gồm ba giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn, trong dạng trường năng lượng và trong thể xác của con người diễn ra các quá trình đặc biệt làm tên gọi cho các giai đoạn đó.  Sự khác biệ...